Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng vũ trang cách mạng tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, có nhiệm vụ chính trị là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên hiện nay, các thế lực thù địch đã và đang chống phá xuyên tạc, phủ nhận. Bởi vậy, cần nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn đó.
1. Các quan điểm sai trái, thù địch
Một số quan điểm sai trái, thù địch cho rằng: “Ai làm thoái hóa quân đội Việt Nam?” để chỉ trích Quân đội ta, xuyên tạc Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng. Họ cho rằng Quân đội “lấn sân”, “đàn áp nhân dân”, “quân sự hóa hoạt động dân sự” thậm chí có hành động ngăn cản các đơn vị Quân đội tham gia thực hiện nhiệm vụ. Mục đích nhằm phủ nhận truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm suy yếu, gây bất ổn trong nội bộ hai lực lượng, làm nảy sinh tư tưởng giao động, mơ hồ, hoài nghi, hiềm khích mối quan hệ giữa Quân đội và Công an.
2. Trước hết, khẳng định các quan điểm của các thế lực thù địch là không thể chấp nhận và đáng bị vạch trần, lên án
Thứ nhất, Quân đội tham gia bảo vệ an ninh có cơ sở từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò của quân đội đối với xã hội“bạo lực hiện nay chính là quân đội và hạm đội” (1); “Theo lời C.Mác, bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới trong lòng” (2), do đó tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng với nhiều hình thức khác nhau kể cả hình thức vũ trang nhằm cải tạo xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, khắc phục sự chống đối của lực lượng phản động. Quân đội cách mạng khác về bản chất so với quân đội tư sản “là công cụ vững chắc nhất để duy trì chế độ cũ, là thành trì kiên cố nhất để bảo đảm cho kỷ luật tư sản và sự thống trị của tư bản” (3). Quân đội tham gia bảo vệ an ninh tạo tiền đề cho phát triển kinh tế, C.Mác chỉ rõ: “Nói chung, quân đội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế” (4). Hiện nay, trong an ninh hàm chứa cả yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và có cả yếu tố quốc phòng. Đây là cơ sở lý luận phản bác quan điểm của các thế lực thù địch đồng nhất sự tham gia trấn áp các thế lực phản động, giữ vững an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội của quân đội cách mạng với hành động đàn áp phong trào cách mạng do quân đội tư sản tiến hành.
Theo V.I.Lênin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ” (5) đặt ra yêu cầu cho Nhân dân và Hồng quân“bảo vệ sự nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ, cũng như cho con cái họ, có khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con người” (6). Đồng thời, V.I.Lênin cũng chỉ ra trách nhiệm của toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội: “Chúng ta chủ trương bảo vệ tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà” (7). Điều đó cho thấy, Người đặc biệt coi trọng sức mạnh quân sự bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội bắt nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nhất quán trong đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ sự khác biệt về bản chất của nhà nước tư sản và nhà nước ta, một bên là “Chính quyền của bọn tư bản thì là chính quyền chuyên chính của một thiểu số chống lại đa số,… còn đối với nước ta Nhân dân chuyên chính để đàn áp bọn thực dân xâm lược và bọn tay sai chống lại chính quyền ấy” (8). Đồng thời, Bác chỉ rõ: Quân đội không chỉ đơn thuần chỉ là để chống lại sự xâm lược của kẻ thù từ bên ngoài, Công an không chỉ là giữ gìn an ninh, chống các thế lực phản động bên trong, mà cả hai tuy có nhiệm vụ cụ thể riêng, phương thức bảo vệ riêng, trong nhiệm vụ quốc phòng có cả an ninh, trong nhiệm vụ an ninh có cả quốc phòng. Người khẳng định: “Thành lập được lực lượng công an nhân dân vũ trang là một thành công về đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau giữa bộ đội và công an. Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, ra sức phát triển ưu điểm, khắc phục những tư tưởng không đúng” (9). Không những vậy, “Bác dặn thêm mấy điểm: Công an và bộ đội phải cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch bên trong và kẻ địch bên ngoài. Kẻ địch bên trong là bọn phản động, bọn phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; kẻ địch bên ngoài là bọn đế quốc, bọn xâm lược. Chống bọn xâm lược và bọn phá hoại là nhiệm vụ của quân đội, của công an nói riêng và toàn dân nói chung” (10). Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra và phê bình những quan điểm sai trái“Cũng có người có ý nghĩ quân đội hơn công an, hoặc công an hơn quân đội. Nghĩ như thế càng không đúng, bởi vì mỗi ngành có nghiệp vụ chuyên môn của nó. Nhưng cả hai đều phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng cả. Vì vậy, không nên coi mình là giỏi mà phải luôn luôn học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau để càng ngày càng tiến bộ” (11).
Đảng ta đã luôn coi trọng nhiệm vụ an ninh, có nhiều chủ trương phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng giai đoạn. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhấn mạnh: “Tăng cường quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an nhân dân với Quân đội nhân dân và các ngành, các địa phương trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Bối cảnh hiện nay, sự gắn kết giữa quốc phòng và an ninh càng có ý nghĩa quan trọng, Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định“Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (12).
Trong công tác quản lý nhà nước, Luật Công an nhân dân chỉ rõ: Quân đội có trách nhiệm phối hợp với Công an để bảo vệ an ninh. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 107/2003/QĐ-TTg, ngày 02/6/2003 về Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng; Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 05/9/2019 về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội) tạo cơ sở pháp lý để Quân đội thực hiện nhiệm vụ.
Thứ ba, Quân đội, Công an, Dân quân tự vệ và Nhân dân đã chiến đấu anh dũng, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, đồng cam, cộng khổ, hy sinh, phối hợp, hiệp đồng chiến đấu chống hoạt động do thám, gián điệp, phản động tay sai, càn quét của địch, bảo vệ vững chắc hậu phương và khu căn cứ kháng chiến; phối hợp đập tan âm mưu và kế hoạch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam, trấn áp, xử lý bọn phản cách mạng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Trong 28 năm anh Hoàn phụ trách ngành Công an, giữa tôi và anh Hoàn có sự phối hợp, hiệp đồng rất tốt. Tôi thường trao đổi với anh, Quân đội và Công an là anh em sinh đôi, cần có sự phối hợp chặt chẽ” (13).
Cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, hai lực lượng tiếp tục đoàn kết, thường xuyên trao đổi, nắm chắc tình hình, chủ động đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đồng thời trực tiếp triệt phá các tổ chức Fulro, các băng nhóm tội phạm, các nhen nhóm phản động, bảo đảm an ninh, trật tự khu vực biên giới, biển, đảo và nội địa, nhất là địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; xây dựng các mô hình “Liên kết xây dựng vùng giáp ranh an toàn về an ninh, trật tự”, “Tiếng kẻng vùng biên”, “Xóm chài bình yên”, “Cụm tàu thuyền an toàn”, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tóm lại: “Thời gian qua, những vấn đề phức tạp về quốc phòng, an ninh được hai lực lượng phối hợp tham mưu với Đảng, Nhà nước, triển khai xử lý kịp thời, hiệu quả, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Sự đoàn kết, phối hợp giữa hai lực lượng đã trở thành truyền thống, là nhân tố không thể thiếu, góp phần làm nên sức mạnh của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân” (14).
Thứ tư, tình hình thế giới, trong nước và yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội cần phải phát huy hơn nữa vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam
Bên cạnh xu thế hòa bình, hợp tác thì thế giới tiếp tục có nhiều diễn biễn phức tạp, khó lường liên quan đến lợi ích an ninh quốc gia. Thách thức của phát triển khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo tạo ra nguy cơ an ninh mạng càng hiện hữu, là phương tiện để các thế lực thù địch thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, “bất tuân dân sự” nhằm thay đổi chế độ chính trị. Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng; tranh chấp, khiếu kiện diễn biến phức tạp, bị phần tử xấu lợi dụng, gây rối trật tự công cộng, các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, biểu hiện rõ ở vụ việc phức tạp xảy ra tại Đắk Lắk. Những nguy cơ, thách thức đặt ra yêu cầu cấp bách xây dựng Quân đội và Công an thành sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh bại mọi kẻ thù từ bên trong cũng như bên ngoài.
3. Tiếp tục phát huy vai trò của Quân đội, hoàn thành tốt nhiệm vụ tham gia bảo vệ an ninh
Một là, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế, cơ chế chính sách đối với hoạt động tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của Quân đội; giữ đúng nguyên tắc xây dựng và duy trì hoạt động của mỗi lực lượng, trên cơ sở quán triệt, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các văn bản pháp lý của Nhà nước về công tác phối hợp, trọng tâm là Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo thống nhất của Ủy ban nhân dân, Chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương chỉ huy thống nhất lực lượng vũ trang thuộc quyền trong khu vực phòng thủ, phối hợp với các lực lượng trên địa bàn thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu”.
Hai là, tiếp tục tăng cường giáo dục, quán triệt cán bộ, chiến sĩ Quân đội tham gia bảo vệ an ninh, đây là một nhiệm vụ “chiến đấu trong thời bình” của Quân đội; xác định quyết tâm, rèn luyện ý thức kỷ luật nghiêm, sẵn sàng cao nhất nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Ba là, nâng cao hiệu quả tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trên các địa bàn, tăng cường cử cán bộ tham gia cấp ủy, chính quyền ở cấp xã. Làm tốt công tác dân vận, sâu sát, nắm chắc địa bàn, kịp thời nắm bắt tâm tư, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, chủ động giải quyết những vướng mắc nảy sinh, tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Bốn là, tích cực nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu đáp ứng yêu cầu tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Chú trọng công tác xây dựng kế hoạch, dự kiến các phương án sử dụng lực lượng, phương tiện, đảm bảo trong các tình huống; phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm nhất là của lực lượng Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển; Cơ quan Bảo vệ an ninh, Điều tra hình sự Quân đội; phối hợp hiệu quả phòng chống tụ tập đông người trái pháp luật, biểu tình gây rối an ninh trật tự, bạo loạn, khủng bố, bảo vệ các sự kiện, mục tiêu trọng điểm; xử trí các tình huống trong khu vực phòng thủ theo đúng chủ trương, chính sách, văn bản pháp quy của Nhà nước, Bộ Quốc phòng. Chủ động nghiên cứu phối hợp về tác chiến điện tử, không gian mạng, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh. Tổ chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm, kịp thời phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, bất cập để công tác phối hợp.
Có thể nói, Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh là một giá trị làm nên phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Vì thế, sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân về nhiệm vụ của Quân đội ta tạo nên sức mạnh chiến thắng những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch thời gian qua.
--------------------------------------------------
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 20, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội 1994, tr. 235.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 20, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội 1994, tr. 259.
(3) V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 28, Nxb Tiến Bộ, M, 1977, tr.364.
(4) C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 29, Nxb CTQG Sự thật, H.1996, tr.246.
(5) V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 37, Nxb Tiến bộ, M, 1977, tr.145.
(6) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, M,1978, tr.378.
(7) V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 35, Nxb Tiến bộ, M, 1977, tr. 300.
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG Sự Thật, H. 2011, tr.269
(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG Sự Thật, H, 2011, tr.153; tr.154
(10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG Sự Thật, H, 2011, tr.154
(11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG Sự Thật, H, 2011, tr.154
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, H, 2021, Tập 1, tr. 14.
(13) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Những kỷ niệm sâu sắc về Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, Nxb Công an nhân dân, H, 2005, tr.18.
(14) https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/quan-doi-nhan-dan-va-cong-an-nhan-dan-phoi-hop-chat-che-nhip-nhang-hoan-thanh-tot-moi-nhiem-vu-712722